Đèn xếp.
Chỉ còn một vài ngày nữa là đến tết Trung thu (tôi viết bài này khi còn mấy bữa nữa là đến rằm tháng tám). Bánh trung thu... ế chắc đã bán giảm giá từ lâu. Tết Trung thu bây giờ có lẽ đã khá xa lạ với trẻ con, may ra trong những xóm lao động nơi những con hẻm nhỏ mà cửa nhà nào nhà nấy luôn mở nhìn sang nhà đối diện, là còn thấy buổi tối vài đứa trẻ con chơi cái đèn lồng hiện đại bằng nhựa chạy pin nhấp nháy phát ra tiếng nhạc ò e, hoặc những cái đèn lồng bằng giấy kiếng xanh đỏ thắp nến truyền thống, còn nơi những xóm trung lưu trở lên, nhà cửa kín cổng cao tường, may ra đám trẻ còn được mua cho những chiếc đèn lồng, nhưng phải chơi một mình trong nhà. Còn các loại bánh Trung thu như bánh nướng, bánh dẻo, và nhiều thứ bánh khác nữa ê hề ra đấy, nhưng chúng chẳng thèm đụng đến bởi bánh ngọt lừ, lổn nhổn ăn mau ngán. Trẻ con ở thành phố bây giờ có quá nhiều đồ chơi tối tân, và bánh kẹo. Các loại bánh Trung thu ấy chỉ để dành cho người lớn, các cơ quan mua biếu xén lẫn nhau, trả ơn trả nghĩa...
Trong ký ức của tôi, có lẽ cái thời con nít học tiểu học (cỡ cuối thập niên 50, sang đầu thập niên 60 của thế kỷ trước) là thời tôi được hưởng những mùa Trung thu vui nhất. Thời ấy gia đình tôi ở trong một xóm nhỏ dân cư lao động nơi vùng Chợ Lớn, nay thuộc quận 11. Xóm gồm một số gia đình Bắc di cư như gia đình tôi, một số gia đình người miền Nam, một số khác là người gốc Hoa. Nhà nào cũng có vài đứa trẻ con lớn nhỏ, lóc nhóc, tùy từng lứa tuổi, trai gái mà chơi với nhau. Xóm lao động, bình dân, cho nên ít có gia đình giàu có. Gia đình mièn Bắc đa phần làm công chức, tư chức, gíao viên... Người miền Nam làm đủ mọi nghề, chạy xe xích lô máy, nghề tự do, bán tạp hóa... Còn người Hoa thường buôn bán nhỏ như bán hủ tiếu, cà phê, làm các loại bánh mứt...
Mùa Trung thu nơi xóm lao động nhà nghèo, hiếm có đúa nào được mua cho cái lồng đèn, cho nên đến khoảng đầu tháng 8 âm lịch bọn nhóc tì tụi tôi thường phải tự làm lấy những đồ chơi Trung thu, đi kiếm tre về chẻ ra làm lồng đèn, dễ nhất là lồng đèn ông sao, Tôi thường xin những miếng giấy kiếng gói những hộp bánh quế, bánh cốm... đám cưới để dành phất lồng đèn, một món đồ chơi khác của đám con trai là cái xe đẩy bằng lõi cuộn chỉ, và cái ống lon sữa bò mà tôi đã nói ở entry trước. Tôi cũng nhớ thời ấy ông cụ tôi hay làm cho mấy đúa trẻ trong nhà cái lồng đèn kéo quân. Ông cụ tôi rất khéo tay (dân học Bách Nghệ Hà Nội ngày xưa). Ông cụ tôi lấy tre vót thành những cây nan đều đặn, ghép lại thành khung chiếc đèn kéo quân lục giác, đèn phất bằng giấy mờ chứ không phải bằng giấy bóng kiếng. Bên trong phía trên gắn chiếc chong chóng nằm ngang (cánh quạt) quay bằng hơi nóng của ngọn đèn tròn. Chong chóng có trục bằng tre, ăn với những hình nhân cắt bằng giấy như cô tiên, trẻ con rước đèn, chú lính, con ngựa đang phi... qua một hệ thống khung bằng giây kẽm. Khi bóng đèn được thắp sáng, hơi nóng tỏa ra làm quay chong chóng khiến những hình nhân chuyển động vòng tròn, in hình lên lớp giấy mờ. Chiếc đèn kéo quân này luôn làm anh em tôi mê mẩn, và cũng là niềm tự hào với đám con nít trong xòm.
Mấy buổi tối trước Trung thu hôm nào trời không mưa, bọn trẻ trong xòm thường rủ nhau rước đèn, nhưng vui nhất là tối Trung thu vào đúng rằm tháng tám. Tôi nhớ bài hát phổ biến bấy giờ là bài "Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ... Mười lăm tháng tám trời cho, một ông trăng sáng thật to...". Trong bài hát cũng có câu "Có con dế mèn, hát trong đêm khuya, hát xẩm không tiền, nên nghèo xác xơ...".
Buổi tối Trung thu thể nào trong nhà tôi cũng có bày cỗ. Mà ngộ, trong xóm có mấy gia đình Bắc kỳ, mấy gia đình người Nam, mấy gia đình người Hoa, thì chỉ có gia đình người Bắc bày cỗ cho đám trẻ. Người Hoa thì bày bàn, mâm cúng trước cửa nhà, nhưng là cúng thánh thần chứ không dành cho trẻ con. Còn mấy gia đình người miền Nam thì chẳng thấy cúng bái cỗ bàn gì cả. Thực ra gọi là bày cỗ chứ cũng chẳng có bao nhiêu. Tôi nhớ ở nhà tôi thường bày một hoặc hai hộp bánh gồm mấy chiếc bánh dẻo, mấy chiếc bánh nướng, thêm một vài thứ bánh khác như rau câu, một ít trái cây gồm ổi, cóc, đậu phọng luộc, quýt, một vài quả bưởi (bà cụ tôi gọi là quả bòng). Các nhà khác cũng thế, nhà nào theo Phật giáo thường có thêm ít chén xôi chè để cúng. Nhưng đặc biệt ở nhà tôi có cái tháp xếp bằng những khúc mía xẻ đôi theo chiều dọc để nguyên vỏ, hình dáng như cái tháp Eiffel do ông cụ tôi làm. Bên trên tháp cắm một ngọn nến nhỏ, loại để thắp đèn Trung thu.
Tiến sĩ giấy. Ảnh Internet.
Trong xóm tôi có một gia đình người Bắc di cư gọi là bà Phủ là giàu có (tới thời tôi có chút trí khôn thì không thấy ông Phủ, không biết ông đã mất lúc nào), sau tôi mới biết "Phủ" là chức tước ngày xưa của ông, cũng như ở bên cạnh nhà tôi bấy giờ có "Ông Giáo", là bởi ông làm nghề dạy học. Gia đình bà Phủ ở ngôi nhà to nhất xóm nơi một ngã ba, có sân vườn rộng, rào bằng dây kẽm gai. Bà Phủ đã khá lớn tuổi, con cái của họ bằng cỡ các cụ nhà tôi, tôi chơi với vài đứa cháu trong nhà. Họ sống khá biệt lập, ít giao tiếp với hàng xóm, hiếm khi nào tôi được mấy đứa cháu dắt vào nhà chơi. Tôi còn nhớ có lần hiếm hoi được vào, thấy trên vách tường treo một cây kiếm dài để trong vỏ, hơi cong, chắc kiếm của ông Phủ ngày xưa, một bàn thờ lớn giữa nhà với nhiều hình ảnh,, và trên tường treo những bức liễn, hoành phi viết chữ Tàu sơn son thếp vàng không có nơi những nhà khác...
Một lần khác vào tối Trung thu, sau khi rước đèn lòng vòng trong xóm, mấy đứa cháu dắt tôi vào nhà. Cỗ bàn của nhà tụi nó bày ngoài hiên to nhất xóm, đèn nến sáng ngời, lồng đèn treo cả lên cành cây, cỗ bàn to gấp cả năm bảy lần mâm cỗ nhà tôi, đủ mọi thứ bánh trái. Điều tôi chú ý là trên mâm cỗ có bày một hình nhân bằng hàng mã gọi là "Ông Tiến sĩ giấy" mà cỗ bàn những nhà khác không có. Thời ấy chỉ nghe người lớn nói thế chứ tôi cũng chẳng hiểu hay thắc mắc bày ông tiến sĩ giấy trên mâm cỗ để làm gì? Lớn lên mới biết hình ảnh ông tiến sĩ giấy bày trong dịp tết Trung thu của trẻ con, là dịp để cha mẹ tỏ lòng mong muốn con cái sau này sẽ đỗ đạt nên danh nên phận với đời. Hoặc giả đối với gia đình này, ông Phủ ngày xưa đã đỗ tiến sĩ, làm quan vinh hiển, nay con cháu bày ông tiến sĩ giấy để nhớ lại dĩ vãng một thời oanh liệt?
Coda:
Ngày xưa người ta cố dùi mài kinh sử chữ nghĩa thánh hiền, thi đậu Tiến sĩ để ra làm quan, hưởng bổng lộc triều đình mong vinh hiển cả đời, cả dòng họ.
Mấy ngày hôm nay tôi theo dõi chuyện bổ nhiệm Giáo sư trong công tác giảng dạy của trường đại học Tôn Đức Thắng, có những ý kiến phản đối và những ý kiến ủng hộ. Có nhiều lý do nhưng đại khái "phe" ủng hộ muốn giáo dục nước ta hội nhập với thế giới (nếu đã hội nhập đừng hội nhập nửa vời kiểu thò ra thụt vào), trả lại từ Giáo sư về với ý nghĩa đích thực của nó. Chức danh Giáo sư giảng dạy, hoặc nghiên cứu khi được bổ nhiệm ở đại học chỉ có giá trị lúc còn giảng dạy, hay làm việc ở đại học, là một chức danh cụ thể, hết giảng dạy, hết làm việc thì không còn là Giáo sư nữa.
Còn "phe" phản đối cho rằng chức danh Giáo sư là được nhà nước (cả một Hội đồng quốc gia) xét duyệt phong tặng, đây mới là Giáo sư chính thống (và chính cống), Hàm Giáo sư này là suốt đời, có ý nghĩa mọi lúc mọi nơi, dù người ta đã chỉ ra rằng 2/3 trong số Giáo sư này làm công việc hành chánh, quản lý như một quan chức, chứ không nghiên cứu hay giảng dạy ngày nào. Người ta nói nếu đại học nào cũng "tự phong Giáo sư" như thế thì sẽ "loạn Giáo sư" (cái chiếu hoa ở giữa đình đã chật rồi, đừng có nhăm nhe nhét thêm người vào nữa),
Ở thời buổi này, thời mà người ta gọi là "Thế giới phẳng", là "Toàn cầu hóa", thế giới rộng lớn chỉ còn như chiếc ao làng, nhưng vẫn có nơi, có những người muốn "độc quyền" luôn cả cái từ Giáo sư. Rất lạ, chắc mọi người còn nhớ mới đây ngành Giáo dục đề nghị gọi lớp trưởng là Chủ tịch, mà không sợ "loạn Chủ tịch". Trong khi người giảng dạy, nghiên cứu ở đại học được gọi là Giáo sư lại sợ "loạn Giáo sư"?
Trưng bày ông Tiến sĩ giấy trong mâm cỗ Trung thu ngày xưa, Mục đích của đại đa số cha mẹ muốn con cái học hành đỗ đạt Tiến sĩ không phải là để có trí thức giúp đời, giúp dân, giúp nước, mà chủ yếu ra làm quan, hưởng bổng lộc, phú quý, vinh hoa. Bởi thế nhà thơ Nguyễn Khuyến (Tam nguyên Yên Đổ) mới có bài thơ Vịnh Tiến sĩ giấy, để bỡn, với hai câu thơ cuối:
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Một vài ký ức nhân dịp ngày rằm tháng tám Trung thu.
Saigon, mùa Trung thu 2015.