Cò thuộc loài chim, hẳn là như thế, chúng gồm đủ mọi thứ tên gọi, cò nhạn, cò quắm, cò thìa, cò ruồi, cò ma, cò bợ, cò lửa... và cùng một họ hàng tổ tiên ông bà ông vải với hạc (vạc), sếu, diệc... vân vân... Họ hàng nhà cò chuyên sống ở những vùng đầm lầy, đồng ruộng ngập nước. Về miền Tây Nam bộ vùng Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười, Cà Mau, Bạc Liêu... chúng ta sẽ thấy rất nhiều cò trên đồng ruộng, hay trong những tràm chim, vườn chim... Sống ở đồng ruộng, sông nước cho nên chúng xơi tôm cá, ếch nhái... đấy là những món khoái khẩu từ bao đời nay của chúng...
Trong đời sống nhân loại, con cò được con người nhìn dưới những hình ảnh đẹp đẽ, nhưng cũng chính con cò lại bị con người gán cho nhiều cái xấu, hay đúng hơn là nhiều tật xấu của con người lại mang tên loài cò. Thật ra họ hàng nhà cò nói chung là loài chim khá dễ thương, chúng chẳng làm hại gì đến con người, trái lại bây giờ người ta còn săn bắt chúng làm món nhậu. Xưa kia đến 90% người Việt sống bằng nông nghiệp, con người luôn gắn bó với đồng ruộng, mà đồng ruộng cũng chính là nơi họ hàng nhà cò sinh sống, cho nên giữa con người và họ hàng nhà cò chắc hẳn cũng đã có một mối liên lệ thân thiết, hình ảnh của chúng trên đồng ruộng mang đến cho con người những nét rất đẹp và thi vị. Tôi thử điểm lại về cái nhìn của con người đối với loài cò.
Về nét đẹp, thì hẳn chúng ta cũng đã biết từ lâu con cò đã đi vào ca dao, để chỉ sự tần tảo chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam ngày xưa... Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/ Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng... Ở một cái xứ sở mà chiến tranh luôn rình rập, ngoài thì ngoại xâm, nội luôn bất an, người đàn ông không thể thoát ra khỏi được những cuộc chinh chiến triền miên, và bao nhiêu cái khổ, cái khó lại dồn lên đôi vai của người phụ nữ, người mẹ... Con cò cũng đi vào giấc ngủ của trẻ thơ bằng tiếng hát ru theo điệu Cò lả của người mẹ... Con cò bay lả bay la/ Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng... Trong âm nhạc Nam bộ chúng ta có chiếc đàn cò, một nhạc cụ không thể thiếu trong giàn nhạc dân gian, tiếng đàn cò là những âm thanh chủ đạo trong văn hóa dân gian, ngay cả khi đưa tiễn con người về với cõi vĩnh hằng... Và người ta cũng ví người mẹ, người phụ nữ một nắng hai sương nơi đồng ruộng với thân cò. Hôm nay cũng sắp đến rằm tháng bảy, sắp đến ngày lễ Vu lan báo hiếu, xin gởi những dòng này đến những bà mẹ, xưa nay, để tri ân...
Về tập quán thì như chúng ta thường thấy cò là loài kiếm ăn vào ban ngày, buổi chiều tối chúng trở về tổ trên những ngọn cây. Nhưng trong ca dao cũng có câu "Con cò mày đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao...". Không rõ ca dao nói thế có đúng không? Bởi tôi cũng chưa có dịp ra đồng ruộng lúc ban đêm để kiểm chứng. Nếu có loài cò phải lặn lội kiếm ăn vào ban đêm nữa thì quả thật con cò rất xứng đáng được loài người tôn vinh...
Đấy là những nét đẹp "tâm linh" mà người ta lấy loài cò làm ví dụ. Còn về nét đẹp hình thể, hiển nhiên thì chúng ta ai cũng thích nhìn những cánh cò bay lả trong một buổi chiều tà, chiều hôm xa nhà tình cờ nhìn về cuối trời thấy những cánh cò chấp chới trong chút nắng muộn thì không còn gì ngậm ngùi hơn...
Ngày xưa người Ai Cập cổ đại coi cò như con vật linh thiêng, chúng được ướp xác cùng với những bậc vua chúa nơi lăng mộ, kim tự tháp. Còn bên Châu Âu thì xưa nay xem cò là biểu tượng của hạnh phúc và may mắn, người lớn giải thích với trẻ con rằng những đứa trẻ con là em của chúng mới sinh ra, đã được những con cò mang đến từ đồng ruộng...
Những hình ảnh khác mà người ta mượn tên loài cò để gọi, chúng ta có thể thấy, trước hết là con tem bưu điện. Bây giờ con tem bưu điện dùng để gởi thư ít thấy được sử dụng, thứ nhất là người ta quay tem máy tiện hơn, thứ nhì là thư điện tử đã góp phần rất lớn làm người ta không gởi thư viết trên giấy kiểu cổ điển. Bây giờ chắc ít còn ai nhớ đến mấy câu thơ "Người phát thư vừa qua khỏi cửa/ Lòng tôi như tỉnh lại như ngây...", mà tôi không nhớ là của nhà thơ Xuân Diệu hay Huy Cận, để chỉ cái tâm trạng của một người mong đợi cánh thư viết từ phương xa... Khi gởi thư thì người ta dán lên bì thư một con tem. Ngày xưa người ta gọi con tem là "con cò". Tôi copy lại một đoạn bài viết trên một tờ báo điện tử về nguồn gốc của từ ngữ "con cò" dùng để chỉ con tem:
Ngày 11/11/1860, Bưu điện Sàigòn được thành lập. Ngày 13/1/1863,ở dây Thép Sàigòn khánh thành và phát hành "con cò" (người Sàigòn xưa thường gọi con tem là con cò) đầu tiên. Tem này mang hình con đại bàng, dùng chung cho các nước thuộc địa Pháp, phân biệt bằng dấu hủy riêng tại mỗi nước. Cho nên, nếu nhìn theo lối truy tầm gốc tích thì 13/11/1863 cũng có thể là ngày tem thư Việt Nam, cách đây 150 năm.
![]() |
Tem in hình con cò. Ảnh internet. |
*******************************
Như vậy là con tem đầu tiên phát hành tại Saigon lại mang hình con đại bàng chứ không phải con cò, nhưng có lẽ người Việt Nam khá xa lạ với chim đại bàng cho nên người ta mới lấy luôn hình ảnh con cò, là con vật gần gũi để gọi cho tiện, cái tên con cò để chỉ con tem bưu chính "chết" luôn từ đấy. Thế là con tem được quần chúng gọi là con cò, nhưng con cò thực sự đã có mặt trên các con tem trên khắp thế giới, nhiều nước đã phát hành loại tem có in hình con cò. Cả trên giấy bạc cũng có hình con cò, ở nước ta vào thế kỷ thứ 19 dưới triều nhà Nguyễn, có lưu hành đồng bạc của Mễ Tây Cơ in hình con cò do các tàu buôn phương Tây mang đến trao đổi hàng hóa, và người dân đã gọi tiền này là đồng tiền con cò. Rồi đến cả thày đội cảnh sát cũng được gọi là "ông cò", hihi, cái này cũng hơi ngộ. Tại sao thế? Theo tôi có lẽ bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
- Con tem (con cò) được phát hành bởi ngành Bưu chính, Bưu điện, tiếng Tây Poste (n.f.) có nghĩa là Bưu chính, Bưu cục, sở Bưu điện, đồng âm với từ Poste (n.m.) có nghĩa là đồn (binh), bót (cảnh sát). Ở Poste của ngành Bưu chính có con tem (con cò), thì ở Poste của ngành cảnh sát có "ông cò" là lẽ đương nhiên, và thế là từ "ông cò" ra đời, bắt nguồn từ con cò (con tem), để chỉ thày đội cảnh sát.
- Tôi còn nhớ những hình ảnh của ông cò (thày đội cảnh sát) ngày xưa từ thời Tây sang đến thời Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam, thường mặc nguyên bộ đồng phục màu trắng, có lẽ giống màu lông của những con cò trắng chăng?
- Một hình ảnh khác mà các ông bố bà mẹ đã dùng tên con cò để gọi, và có phần dung tục, đó là từ chim cò, hay cu cò, để chỉ cái mà chú nhóc tì con cái của họ hay dùng để... tè dầm, hì hì, đến đây thì con cò bắt đầu mang tiếng rồi. Cũng từ chim cò, ăn mặc chim cò, người ta nói thế để chỉ phái nam khi ăn mặc có phần lòe loẹt, nhất là với những người đã đứng tuổi còn thích ăn mặc màu sắc trẻ trung, hoa hòe hoa sói, không phù hợp với tuổi tác. Không hiểu sao người ta lại gọi như thế trong khi bộ cánh thường thấy của loài cò chỉ là màu trắng, hoặc nâu, xám, đen, không phải là những màu rực rỡ, tươi sáng...
- Người ta cũng dùng tên một vài loại cò để gọi những trạng thái, hoặc thói hư tật xấu của con người, chẳng hạn mệt lử cò bợ, để chỉ trạng thái rất mệt sau khi gắng sức làm một việc gì đó, chẳng hạn ở trên tầng 12 của chung cư mà thang máy bị hư phải lên xuống cuốc bộ. Một từ khác là cò mồi, xưa thường dùng để chỉ bọn cờ gian bạc lận nơi bến xe, chốn công cộng, chúng dàn cảnh cờ bạc chơi bài ba lá nhanh ăn thua, cho người vờ ăn để dụ dỗ những kẻ nhẹ dạ... Một từ nữa là cò cưa, làm ăn gì mà cò cưa, để chỉ một trạng thái làm việc gì đó lằng nhằng, không dứt khoát, không rõ ràng, cũng có từ cò trong đó...
- Không phải chỉ bên dân sự ( affaire civile), hoặc bán quân sự (paramilitaire) như cảnh sát mới dùng từ cò, ngay cả giới quân sự (militaire) người ta cũng dùng từ cò, chẳng hạn như cò súng, để chỉ một bộ phận rất quan trọng ở khẩu súng, một dụng cụ của chết chóc, có lẽ bởi cái cò súng có hình dáng cong cong trông như cổ con cò chăng? Một từ nữa là cò pháo, cũng thuộc bên quân sự.
- Có một từ khác, dùng tên loài cò để ám chỉ, đến đây thì đúng là bôi bác loài cò quá đáng, đó là từ cò nhà, cò đất, cò giấy tờ, cò bệnh viện, cò chạy án... loại cò này có lẽ cũng chỉ mới xuất hiện gần đây, theo nền... kinh tế thị trường, ba lợi ích, năm bảy thiệt hại...
Đấy là những gì tôi biết về loài cò, có lẽ chỉ đủ cho một luận văn tốt nghiệp cấp Tờ Hờ (TH - Tiểu Học), chắc ý tứ vẫn còn chưa đủ, xin mời các bạn bổ sung tiếp.