Hiển thị các bài đăng có nhãn Thủ công. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thủ công. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

Luận về... cò..

Hồi này tôi khoái làm mấy con cò giấy tệ, mấy cái con cổ cong, mỏ dài, chân cẳng lêu nghêu mà có lần xuống miền Tây ngồi ghe men theo sông rạch nhìn ngắm chúng là hết biết. Trước hết tôi cũng xin nói ngay "cò" có nghĩa là... con cò, ý nghĩa chính danh của từ ngữ. Như chúng ta đã biết con cò có mặt trên trái đất này đã từ lâu lắm rồi, theo như Kinh thánh thì nó đã hiện diện từ lúc tạo hóa sinh ra muôn loài, trong đó có loài người, mà có lẽ con cò còn được tạo hóa chế tạo ra trước loài người chút đỉnh, vì con người là giống đã được tạo hóa chế tác ra sau cùng, từ một cục đất sét.

Cò thuộc loài chim, hẳn là như thế, chúng gồm đủ mọi thứ tên gọi, cò nhạn, cò quắm, cò thìa, cò ruồi, cò ma, cò bợ, cò lửa... và cùng một họ hàng tổ tiên ông bà ông vải với hạc (vạc), sếu, diệc... vân vân... Họ hàng nhà cò chuyên sống ở những vùng đầm lầy, đồng ruộng ngập nước. Về miền Tây Nam bộ vùng Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười, Cà Mau, Bạc Liêu... chúng ta sẽ thấy rất nhiều cò trên đồng ruộng, hay trong những tràm chim, vườn chim... Sống ở đồng ruộng, sông nước cho nên chúng xơi tôm cá, ếch nhái... đấy là những món khoái khẩu từ bao đời nay của chúng...



Trong đời sống nhân loại, con cò được con người nhìn dưới những hình ảnh đẹp đẽ, nhưng cũng chính con cò lại bị con người gán cho nhiều cái xấu, hay đúng hơn là nhiều tật xấu của con người lại mang tên loài cò. Thật ra họ hàng nhà cò nói chung là loài chim khá dễ thương, chúng chẳng làm hại gì đến con người, trái lại bây giờ người ta còn săn bắt chúng làm món nhậu. Xưa kia đến 90% người Việt sống bằng nông nghiệp, con người luôn gắn bó với đồng ruộng, mà đồng ruộng cũng chính là nơi họ hàng nhà cò sinh sống, cho nên giữa con người và họ hàng nhà cò chắc hẳn cũng đã có một mối liên lệ thân thiết, hình ảnh của chúng trên đồng ruộng mang đến cho con người những nét rất đẹp và thi vị. Tôi thử điểm lại về cái nhìn của con người đối với loài cò.

Về nét đẹp, thì hẳn chúng ta cũng đã biết từ lâu con cò đã đi vào ca dao, để chỉ sự tần tảo chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam ngày xưa... Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/ Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng... Ở một cái xứ sở mà chiến tranh luôn rình rập, ngoài thì ngoại xâm, nội luôn bất an, người đàn ông không thể thoát ra khỏi được những cuộc chinh chiến triền miên, và bao nhiêu cái khổ, cái khó lại dồn lên đôi vai của người phụ nữ, người mẹ... Con cò cũng đi vào giấc ngủ của trẻ thơ bằng tiếng hát ru theo điệu Cò lả của người mẹ... Con cò bay lả bay la/ Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng... Trong âm nhạc Nam bộ chúng ta có chiếc đàn cò, một nhạc cụ không thể thiếu trong giàn nhạc dân gian, tiếng đàn cò là những âm thanh chủ đạo trong văn hóa dân gian, ngay cả khi đưa tiễn con người về với cõi vĩnh hằng... Và người ta cũng ví người mẹ, người phụ nữ một nắng hai sương nơi đồng ruộng với thân cò. Hôm nay cũng sắp đến rằm tháng bảy, sắp đến ngày lễ Vu lan báo hiếu, xin gởi những dòng này đến những bà mẹ, xưa nay, để tri ân...

Về tập quán thì như chúng ta thường thấy cò là loài kiếm ăn vào ban ngày, buổi chiều tối chúng trở về tổ trên những ngọn cây. Nhưng trong ca dao cũng có câu "Con cò mày đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao...". Không rõ ca dao nói thế có đúng không? Bởi tôi cũng chưa có dịp ra đồng ruộng lúc ban đêm để kiểm chứng. Nếu có loài cò phải lặn lội kiếm ăn vào ban đêm nữa thì quả thật con cò rất xứng đáng được loài người tôn vinh...

Đấy là những nét đẹp "tâm linh" mà người ta lấy loài cò làm ví dụ. Còn về nét đẹp hình thể, hiển nhiên thì chúng ta ai cũng thích nhìn những cánh cò bay lả trong một buổi chiều tà, chiều hôm xa nhà tình cờ nhìn về cuối trời thấy những cánh cò chấp chới trong chút nắng muộn thì không còn gì ngậm ngùi hơn...

Ngày xưa người Ai Cập cổ đại coi cò như con vật linh thiêng, chúng được ướp xác cùng với những bậc vua chúa nơi lăng mộ, kim tự tháp. Còn bên Châu Âu thì xưa nay xem cò là biểu tượng của hạnh phúc và may mắn, người lớn giải thích với trẻ con rằng những đứa trẻ con là em của chúng mới sinh ra, đã được những con cò mang đến từ đồng ruộng...





Những hình ảnh khác mà người ta mượn tên loài cò để gọi, chúng ta có thể thấy, trước hết là con tem bưu điện. Bây giờ con tem bưu điện dùng để gởi thư ít thấy được sử dụng, thứ nhất là người ta quay tem máy tiện hơn, thứ nhì là thư điện tử đã góp phần rất lớn làm người ta không gởi thư viết trên giấy kiểu cổ điển. Bây giờ chắc ít còn ai nhớ đến mấy câu thơ "Người phát thư vừa qua khỏi cửa/ Lòng tôi như tỉnh lại như ngây...", mà tôi không nhớ là của nhà thơ Xuân Diệu hay Huy Cận, để chỉ cái tâm trạng của một người mong đợi cánh thư viết từ phương xa... Khi gởi thư thì người ta dán lên bì thư một con tem. Ngày xưa người ta gọi con tem là "con cò". Tôi copy lại một đoạn bài viết trên một tờ báo điện tử về nguồn gốc của từ ngữ "con cò" dùng để chỉ con tem:


Ngày 11/11/1860, Bưu điện Sàigòn được thành lập. Ngày 13/1/1863,ở dây Thép Sàigòn khánh thành và phát hành "con cò" (người Sàigòn xưa thường gọi con tem là con cò)  đầu tiên. Tem này mang hình con đại bàng, dùng chung cho các nước thuộc địa Pháp, phân biệt bằng dấu hủy riêng tại mỗi nước. Cho nên, nếu nhìn theo lối truy tầm gốc tích thì 13/11/1863 cũng có thể là ngày tem thư Việt Nam, cách đây 150 năm.



Tem in hình con cò. Ảnh internet.


*******************************
Như vậy là con tem đầu tiên phát hành tại Saigon lại mang hình con đại bàng chứ không phải con cò, nhưng có lẽ người Việt Nam khá xa lạ với chim đại bàng cho nên người ta mới lấy luôn hình ảnh con cò, là con vật gần gũi để gọi cho tiện, cái tên con cò để chỉ con tem bưu chính "chết" luôn từ đấy. Thế là con tem được quần chúng gọi là con cò, nhưng con cò thực sự đã có mặt trên các con tem trên khắp thế giới, nhiều nước đã phát hành loại tem có in hình con cò. Cả trên giấy bạc cũng có hình con cò, ở nước ta vào thế kỷ thứ 19 dưới triều nhà Nguyễn, có lưu hành đồng bạc của Mễ Tây Cơ in hình con cò do các tàu buôn phương Tây mang đến trao đổi hàng hóa, và người dân đã gọi tiền này là đồng tiền con cò. Rồi đến cả thày đội cảnh sát cũng được gọi là "ông cò", hihi, cái này cũng hơi ngộ. Tại sao thế? Theo tôi có lẽ bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:

- Con tem (con cò) được phát hành bởi ngành Bưu chính, Bưu điện, tiếng Tây Poste (n.f.) có nghĩa là Bưu chính, Bưu cục, sở Bưu điện, đồng âm với từ Poste (n.m.) có nghĩa là đồn (binh), bót (cảnh sát). Ở Poste của ngành Bưu chính có con tem (con cò), thì ở Poste của ngành cảnh sát có "ông cò" là lẽ đương nhiên, và thế là từ "ông cò" ra đời, bắt nguồn từ con cò (con tem), để chỉ thày đội cảnh sát.

- Tôi còn nhớ những hình ảnh của ông cò (thày đội cảnh sát) ngày xưa từ thời Tây sang đến thời Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam, thường mặc nguyên bộ đồng phục màu trắng, có lẽ giống màu lông của những con cò trắng chăng?

- Một hình ảnh khác mà các ông bố bà mẹ đã dùng tên con cò để gọi, và có phần dung tục, đó là từ chim cò, hay cu cò, để chỉ cái mà chú nhóc tì con cái của họ hay dùng để... tè dầm, hì hì, đến đây thì con cò bắt đầu mang tiếng rồi. Cũng từ chim cò, ăn mặc chim cò, người ta nói thế để chỉ phái nam khi ăn mặc có phần lòe loẹt, nhất là với những người đã đứng tuổi còn thích ăn mặc màu sắc trẻ trung, hoa hòe hoa sói, không phù hợp với tuổi tác. Không hiểu sao người ta lại gọi như thế trong khi bộ cánh thường thấy của loài cò chỉ là màu trắng, hoặc nâu, xám, đen, không phải là những màu rực rỡ, tươi sáng...

- Người ta cũng dùng tên một vài loại cò để gọi những trạng thái, hoặc thói hư tật xấu của con người, chẳng hạn mệt lử cò bợ, để chỉ trạng thái rất mệt sau khi gắng sức làm một việc gì đó, chẳng hạn ở trên tầng 12 của chung cư mà thang máy bị hư phải lên xuống cuốc bộ. Một từ khác là cò mồi, xưa thường dùng để chỉ bọn cờ gian bạc lận nơi bến xe, chốn công cộng, chúng dàn cảnh cờ bạc chơi bài ba lá nhanh ăn thua, cho người vờ ăn để dụ dỗ những kẻ nhẹ dạ... Một từ nữa là cò cưa, làm ăn gì mà cò cưa, để chỉ một trạng thái làm việc gì đó lằng nhằng, không dứt khoát, không rõ ràng, cũng có từ trong đó...

- Không phải chỉ bên dân sự ( affaire civile), hoặc bán quân sự (paramilitaire) như cảnh sát mới dùng từ cò, ngay cả giới quân sự (militaire) người ta cũng dùng từ cò, chẳng hạn như cò súng, để chỉ một bộ phận rất quan trọng ở khẩu súng, một dụng cụ của chết chóc, có lẽ bởi cái cò súng có hình dáng cong cong trông như cổ con cò chăng? Một từ nữa là cò pháo, cũng thuộc bên quân sự.

- Có một từ khác, dùng tên loài cò để ám chỉ, đến đây thì đúng là bôi bác loài cò quá đáng, đó là từ cò nhà, cò đất, cò giấy tờ, cò bệnh viện, cò chạy án... loại cò này có lẽ cũng chỉ mới xuất hiện gần đây, theo nền... kinh tế thị trường, ba lợi ích, năm bảy thiệt hại...

Đấy là những gì tôi biết về loài cò, có lẽ chỉ đủ cho một luận văn tốt nghiệp cấp Tờ Hờ (TH - Tiểu Học), chắc ý tứ vẫn còn chưa đủ, xin mời các bạn bổ sung tiếp.


Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Con hạc.






Hạc là một loài chim được nhắc nhở rất nhiều xưa nay, trong đời sống, trong văn học, thi, ca... Người xưa tin rằng hạc là loài chim trường thọ, "Hạc thọ thiên tuế" chim hạc sống lâu đến ngàn năm, cho nên người ta nói "tuổi hạc" để chúc nhau sống lâu trăm tuổi..

 Khác với loan, phụng là loài chim truyền thuyết, chim hạc là loài chim hiện diện trong cuộc sống. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của viết về hạc như sau: "Loài chim chơn đỏ, hình giống con ngỗng trống mà cao hơn, người ta nói là chim sống lâu, các vị tiên hay cỡi". Nguyễn Du cũng hay nhắc đến chim hạc trong truyện Kiều "Trong như tiếng hạc bay qua" (câu 481), "Tuổi hạc càng cao" (câu 673, 2402, 2876, 3232). 



e




Loay hoay làm mấy con hạc bằng giấy, con đang vỗ cánh bay cao, con đang đập cánh đậu... trò chơi trẻ con với một người già, hìhì!





Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Đá cá lia thia.

Mấy hôm nay đọc báo thấy ngán ngẩm, ôi thôi đủ thứ chuyện, xã hội cứ như là một mớ bòong boong, như đám tơ vò, toàn chuyện đâu đâu, đau lòng có (như chuyện chích ngừa trẻ sơ sinh), hoặc khôi hài, tiếu lâm Giao Chỉ (như mấy chuyện cộng điểm thi đại học cho bà mẹ VN anh hùng, người có công năm 45, hay hạ điểm thi đua của địa phương nào có điểm, hoặc tỉ lệ tốt nghiệp THPT cao hơn năm trước vì lý do trung thực với đảng, với dân...). Để bảo vệ cái đầu của mình khỏi tửng theo, đành phải quay về với cái trò chơi trẻ con là làm mấy con vật nho nhỏ bằng giấy. Có lẽ ngồi làm mấy con này ta phải để tâm hết vào nó, như trò chơi gấp giấy Origami của Nhật, hoặc như mấy người ngồi nặn mấy con tò he đủ màu sắc trước cổng trường cho con nít mẫu giáo, tiểu học xem. Cũng có thể như những người tu hành tụng kinh hay lần tràng hạt.

Một trong những trò chơi thời nhóc tì của tôi và cũng của đám trẻ con cùng xóm là đá cá lia thia, là một trò chơi rất hấp dẫn đám trẻ, cũng giống như đá dế vậy. Cá lia thia đã đi vào ca dao "Lia thia quen chậu/ vợ chồng quen hơi", Đại Nam Quấc âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Paulus Của cũng có nhắc đến cá lia thia "Thua thì thua mẹ thua cha/ Cá sinh một lứa, ai mà thua ai". Thế là đủ biết con cá lia thia hấp dẫn bá tánh như thế nào. Trong quyển Phong lưu cũ mới cố học giả Vương Hồng Sển đã dành ra cả một chương để nói về thú chơi cá lia thia của người Nam bộ xưa, mà ông gọi là cá thia thia, đó không chỉ là thú chơi của con nít hay người vùng dân dã, xưa ở bên Miên, bên Thái, hoàng gia cũng chơi cá lia thia như ai, và những con cá "chiến" được xem như quốc bảo, cấm xuất ra khỏi nước..







Bây giờ vài nơi bán các loại cá kiểng ở Saigon cũng có bán cá lia thia, đủ loại, đủ màu sắc, có những con đuôi, vây trông te tua như... mới thua độ nhưng không phải, giống cá nó thế, có những con cá đủ màu sắc xanh, đỏ, tía, đậm, lợt..., chắc sau này đã được lai tạo, chứ thời tôi còn nhỏ mấy chục năm trước chỉ có hai loại, đó là cá Xiêm và cá Phướn. Cá Xiêm là loại cá gốc từ Thái Lan, xưa tên là Xiêm La, loại này có màu xanh thẫm, đuôi tròn, vây gọn gàng. Còn cá Phướn có màu đỏ hồng,  gọi là cá Phướn vì vây, đuôi của nó dài như lá cờ phướn. Xét hai loại thì cá Xiêm được tụi nhóc ưa thích hơn vì cá này đá chiến hơn, dai sức hơn, có con đá chết bỏ chứ không bao giờ bỏ chạy, còn cá Phướn do vây, đuôi dài thậm thượt, trông đẹp nhưng xoay xở chậm, nhát đòn, bị đá đau là chạy... có cờ.





Bạn nào đã từng nuôi và đá cá lia thia chắc biết rõ đặc tính hiếu chiến của loài cá này, mỗi con phải được nuôi riêng trong một keo (lọ) thủy tinh, hay chậu sành, cũng gống như mấy con dế, nhốt chung mấy con thể nào chúng cũng cắn nhau chí chết. Ở những chỗ bán cá lia thia người ta bày nhiều keo cao cao như thế sát cạnh nhau, được ngăn cách bởi một tấm bìa, tụi nhóc tì đi mua sau khi ngắm nghía thường nhấc tấm bìa ra, hai con cá nhìn thấy nhau qua lớp thủy tinh trong suốt sẽ lập tức phùng mang trợn mỏ, quẫy đuôi so kè nhau trong chiếc keo thủy tinh nhốt nó, trông cũng rất ấn tượng.

Đá cá lia thia cũng giống như đá dế vậy, tuy gọi là đá nhưng thực ra chẳng có gì là "đá" nghĩa là dùng chân cẳng cả, với dế thì chúng dùng đôi hàm sắc khỏe để tấn công đối thủ, còn với cá lia thia chúng cũng dùng miệng để cắn đối phương, cú cắn được phóng ra rất nhanh và mạnh, sau một trận chiến thì thường cả con thắng lẫn con thua đều "te tua" hết. Tụi nhóc chơi đá dế, đá cá là thuần túy để chơi, hoặc "độ" nhau thua thì ăn ký vào đầu gối, búng tai... cùng lắm là đá bắt xác, nghĩa là con thua bị đứa thắng bắt mất, mà lấy được con dế hay con cá lia thia đá thua cũng chẳng thích thú gì, vì thường nếu còn sống, sau đó chúng cũng ê càng, ê mỏ rất nhát, có khi chưa đá mới trông thấy đối phương dương oai đã bỏ chạy...

Tụi nhóc tì chúng tôi ngày trước đá dế, đá cá lia thia là để chơi, thường là trong mấy tháng hè rảnh rỗi được nghỉ học, xưa tiểu học thì hè chẳng có học thêm học nếm nhà thày cô gi cả, được chơi thả giàn, khác xa với con nít thời nay...

Bây giờ... già, chẳng có công đâu mà kiếm nuôi mấy con dế, con cá lia thia xem chúng đá, thời nhỏ còn hăng máu, giờ già nghĩ lại chúng cắn nhau chí tử cũng tội nghiệp, ngồi làm đám dế đám cá chơi trông cũng vui mắt, lại có quà để cho mấy đứa cháu mỗi khi chúng ghé chơi...


Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013

Diện đối.

"Bây giờ đối diện riêng tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con". Tôi chụp hình hai chú ong tôi đã làm bằng giấy và chợt nhớ đến câu thơ của Bùi Giáng trong bài thơ Mắt buồn, từ ý thơ này nhạc sĩ TCS đã viết thành bài hát "con mắt còn lại" khá hay... Thơ của Bùi Giáng đọc là để cảm nhận... được chút nào hay chút nấy, với tôi là thế, nhà thơ rất điênrất tỉnh này có những câu thơ quá hay ai cũng có thể hiểu, nhưng ông cũng có những câu thơ mà có lẽ chỉ mình ông biết ông muốn nói gì, còn nhạc của nhạc sĩ TCS thì đã nổi tiếng xưa nay, mọi người mọi giới đều thích. Riêng tôi hôm nay, tôi chỉ muốn làm một chú ong bầu và một chú ong mật bằng giấy đặt đối diện với nhau để chụp vài tấm hình.



Đang loay hoay bên cạnh cửa sổ chụp hai chú ong giấy thì thật bất ngờ, một chú ong ruồi nhỏ chỉ bằng hạt gạo bay xà vào và đậu xuống.


Chú ong ruồi rất dạn dĩ bên cạnh hai con ong giấy xem ra rất khổng lồ đồi với chú ta, chú ta đi tới đi lui cạnh hai con ong giấy, có những lúc quay lưng lại nhỏng đuôi, nhưng cũng có lúc đối diện và chú ta vung đôi cánh nhỏ xíu mặc cho tôi tha hồ ngắm nghía và chụp hình, kể ra thì chú ong này (có khi là một cô ong cũng nên) còn là một "ong mẫu" trình diễn thật xuất sắc..













Cuộc diện đối giữa chú ong ruồi và hai con ong giấy diễn ra trong vài phút, trước khi chú ta vung tít đôi cánh và bay ra lại cửa sổ, đủ thời gian để cho tôi bấm được những tấm hình khá vui và ngộ nghĩnh này....



Thứ Năm, 18 tháng 7, 2013

Quần hùng hội ngộ.




Rảnh rỗi ngồi thiền với mấy sợi giấy vụn thành những con vật nho nhỏ như chuồn chuồn , cào cào, bọ ngựa... Tôi chợt nhớ đến truyện Dế mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài, một câu truyện mà tôi đã  đọc và thích từ khi còn là chú nhóc. Thuở nhỏ lê la đi bắt dế, cào cào, chuồn chuồn... dế thì để đá chơi còn cào cào chuồn chuồn thì mang về cho mấy con gà nuôi trong sân xơi, cho nên tôi mê ngay nhân vật dế mèn oai hùng trong truyện Dế mèn phiêu lưu ký. Trong truyện anh chàng dế mèn phiêu lưu thực hiện giấc mơ của mình, là kết nối muôn loài, bốn bể đều là anh em một nhà, sống thanh bình, mơ giấc mơ về một thế giới đại đồng...

Tôi thử làm ra những nhân vật trong câu truyện dế mèn ấy, như tráng sĩ dế mèn, võ sĩ bọ ngựa, võ sĩ dế nhũi (dế trũi), ếch cốm, đám cào cào, chuồn chuồn, kiến...

Dế mèn và bọ ngựa.

 
                                                       Dế mèn và dế trũi.

                                                       Bọ ngựa và dế trũi.


                                               Cào cào ma và cào cào voi.

Chuồn chuồn ớt, chuồn chuồn kim và kiến.

Ếch cốm.

Ếch cốm và kiến càng.


Quần hùng hội ngộ.





Thứ Tư, 3 tháng 7, 2013

Đá dế.

Mùa hè, mấy hôm nay các sĩ tử khăn gói đi thi đại học. Ra đường dễ dàng bắt gặp những ông bố, bà mẹ ở xa đến thành phố này, cùng với những thanh niên, thiếu nữ con em của họ ngơ ngác trên phố. Tuổi nhỏ, tuổi trẻ bây giờ khác quá xa tuổi nhỏ, tuổi trẻ của mấy mươi năm về trước, Chưa đến hai mươi thời tôi đã một mình xa nhà, đối diện với những hiểm nguy, bất trắc... Còn tuổi nhỏ bây giờ đi chưa vững, nói chưa sõi đã bấm trò chơi trên máy tính bảng, có đứa suốt ngày trong phòng lạnh. Cái thời tuổi nhỏ xưa còn khác xa nữa, mùa hè chẳng có học thêm học nếm gì cả, tha hồ với nắng mưa gió bụi, lăn lóc bờ bụi cùng với lũ nhóc tì hàng xóm, câu cá, bắt dế, đá dế, đá cá lia thia, chơi khăng, chơi u, chơi cù, đánh đáo, hay chơi tạt lon... Một gia đình thời ấy năm bảy đứa con, làm sao lo cho xuể, cho nên trẻ con cứ lớn lên như cây cỏ...

Một trong những trò chơi hấp dẫn của tuổi nhỏ tôi khi hè về, và cũng rất hấp dẫn với đám con nít cùng thời, là đi bắt những con dế, và đá dế. vào nửa cuối thập niên 50, đầu 60 của thế kỷ trước, khi người Mỹ chưa ồ ạt đổ vào miền Nam, thì Saigon còn hoang sơ lắm, bố mẹ tôi từ Bắc vào định cư ở vùng Trường đua Phú Thọ, cách trung tâm Saigon khoảng bảy tám cây số mà đã như nhà quê, ao chuôm mương cỏ, cả rừng cao su ngút ngàn. Thời nhóc tì tôi người ta cũng đã đi bán những con dế cho đám trẻ ranh, đám học trò phá phách làm trò chơi, thời đó những con dế được đựng trong những chiếc lồng đan bằng tre giống như giỏ câu cá, chứ không phải là những chiếc thùng đóng bằng luói như sau này. Họ không chỉ bán những con dế than, dế lửa, mà có khi còn bán cả  những con bọ dừa, cánh cam, cánh quýt nhiều màu sắc cho lũ trẻ.



Những người đi bán dế ấy thường bán vào buổi sáng, họ hay ngồi trước những ngôi trường tiểu học bán cho lũ nhóc. Bán dế thì khỏi phải rao gì hết, bởi những con dế trong giỏ cứ gáy ri ri, ở cách xa lũ nhỏ đã nghe thấy tiếng gáy. Tuy nhiên lũ nhóc bụi đời chúng tôi ít khi phải bỏ năm cắc, một đồng ra mua những con dế về chơi, đến mùa nghỉ hè trời mưa là tụi tôi rủ nhau đi bắt dế. Đám dế thường sống trong những bãi cỏ hoang, chúng làm tổ dưới hang, bắt chúng không khó, khi phát hiện ra hang của chúng có thể lấy đồ đào, hang thường nông chừng vài ba tấc đất, hoặc chỗ nào có nước thì lấy nước đổ vào hang, một lát ngộp thở là chúng phải chui lên. Có khi một buổi đi bắt như thế hai ba đứa được cả trên chục con dế, về nhà chia nhau. Mà chỉ có dế trống là con dế trên cánh của chúng có gân mới gáy và đá được, còn dế mái thì chán lắm, thường là thả đi, hoặc nhà đứa nào có nuôi gà vịt thì mang về cho chúng ăn. Cũng có khi vào buổi tối những con dế bị ánh đèn trong nhà hấp dẫn, chúng thường bay vào nhà và bị lũ nhóc chúng tôi tóm gọn.





Có được những con dế thì phải kiếm đồ đựng chúng, thường là chúng được đựng trong những chiếc hộp bánh bích qui  bằng thiếc hình chữ nhật xin của người lớn, mỗi hộp chỉ nuôi được hai ba con bằng cách lấy bìa ngăn chúng ra, nếu không chúng sẽ cắn nhau chí tử. Trong hộp bỏ một ít cỏ, đất, và tụi nhóc cho chúng ăn giá, rau xà lách xin từ nhà bếp. Khi đá phải xách ria mép của chúng quay cho chúng say rồi thả vào hộp, hoặc bờ tường cho chúng đụng đầu nhau. Gặp nhau là chúng nhe răng, giương cánh xông vào cắn chết bỏ, có khi rụng cả càng, có những con chiến đấu rất hăng, đá đâu thắng đó, tụi nhóc "thần thánh" lên gọi là "dế hang rắn". Thời nhỏ của tôi tụi nhóc chỉ đá chơi với nhau thôi, cùng lắm là "đá bắt xác", con dế đá thua bị người thắng lấy mất.





Những tấm hình bên trên là hai con dế lửa và dế than tôi đã làm bằng những sợi giấy, bây giờ già rồi, ngồi làm những con dế để nhớ lại những kỷ niệm của một thời xa xưa...


Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

Dơi và Chuột (2).

Entry trước tôi đã post lên những con dơi bằng giấy, entry này tôi sẽ post lên những chú chuột nhắt, cũng bằng những sợi giấy cuốn kiểu như làm những tấm thiệp theo trò chơi quilling của Châu Âu.



Chuột là giống gặm nhấm, phá hại và truyền dịch bệnh, dĩ nhiên là chẳng ai ưa cả, ngoại trừ những món nhậu từ chuột đồng trên bàn hoặc trên chiếu nhậu của những đệ tử lưu linh. Nơi nào có con người chắc chắn là cũng có chuột, chúng hiện diện khắp nơi, cắn phá đủ thứ, lúa, hoa màu ngoài đồng ruộng, trong nhà thì kinh khủng hơn, chúng xơi và cắn bất cứ cái gì lọt vào tầm... răng của chúng, thực phẩm, quần áo, cả đến dây điện trong xe cộ, máy móc...






Chuột là giống mắn đẻ kinh khủng, một năm chúng sinh sản ba, bốn lứa, mỗi lứa có khi cả chục con, vài tháng là lũ chuột con đã trưởng thành, tiếp tục vòng đời của chúng. Thời trung cổ ở Châu Âu đã có lần bị dịch hạch do chuột gieo rắc, chết xoẳn 1/3 dân số Châu Âu lúc bấy giờ...










Đám chuột nhắt đủ màu sắc mà tôi làm bằng những sợi giấy cuốn bên trên may thay chẳng phá phách, chúng như những đứa trẻ con dễ thương đang đùa chơi với nhau... Rảnh rỗi ngồi làm những con vật nhỏ bé này, hôm nào những đứa cháu của tôi đến chơi chúng sẽ xin sạch. Hihi, ngồi tỉ mỉ làm ra chúng, thổi vào những sợi giấy vô tri một cái hồn, cũng như người ngồi thiền hay tụng kinh vậy.