Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ.


                                   Bồ đề Đạt ma. Tượng gốm Biên Hòa.


Tựa bên trên tôi trích trong bài thơ Một ngày nhàn rỗi của Nguyễn Bắc Sơn, một nhà thơ được nhiều người biết đến ở miền Nam vào thời trước năm 1975. Về đâu cũng là về đâu đó/ Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ. Trong câu thơ của Nguyễn Bắc Sơn có nói đến chữ Hồ, trong sách vở Phật giáo, Bồ đề Đạt ma được gọi là "Bích nhãn hồ", tên rợ mắt xanh, để tôi lại lan man về Bồ đề Đạt ma, vị Tổ sư đầu tiên của thiền tông Trung Hoa.

Đất Hán thì chúng ta ai cũng biết là đất của người... Hán, tức là người Hoa, đất của người Trung Hoa xưa, Trung Hoa với cái nghĩa mà người Hán xưa coi như trung tâm của vũ trụ, trung tâm của tinh hoa thế giới. Bởi thế cho nên người Hán mới coi thiên hạ là... cỏ rác, ngoài Trung Hoa ra thì thì tất cả các tộc người ở khắp nơi đều là mọi rợ, man di. Những dân tộc du mục phương Bắc họ gọi là hồ, có nghĩa là mọi, rợ, các dân tộc ở phương Nam họ gọi là man, di, cũng cùng có một ý nghĩa như thế. Ấn Độ là một nước có một nền văn minh, văn hóa tư tưởng không thua gì Trung Hoa, nhiều nhà sư Trung Hoa như Chu Sĩ Hành (thời Tào Ngụy), được coi là tăng nhân đầu tiên của Trung Hoa đi về phương Tây cầu pháp, hay như Sa môn Pháp Hiển (thời Đông Tấn), người được xem là nhà tu hành ưu tú bậc nhất của Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ V, hoặc như Đường tăng Trần Huyền Trang khoảng hơn 100 năm sau Pháp Hiển (năm 645) cũng đã đi Tây phương cầu pháp, mang về Trung Hoa đến 520 rương với 657 bộ kinh Phật Tiểu thừa và Đại thừa, cũng như các thư tịch, tượng Phật.

Nếu 3 nhà sư kể trên từ Trung Hoa đi đến phương Tây bằng đường bộ trên Con đường tơ lụa nổi tiếng xưa kia, thì một nhà sư Trung Hoa khác là Nghĩa Tĩnh, người Tế Nam tỉnh Sơn Đông, năm 671 Đường Cao Tông thứ nhì, đã đến Ấn Độ bằng đường biển. Ông cũng mang về gần 400 bộ kinh, hơn 50 vạn bài tụng, làm phong phú thêm cho kho tàng kinh sách Phật giáo Trung Hoa. Nói lên những điều này, để thấy rằng nếu Trung Hoa có Lão Tử và Khổng Tử, thì ở Ấn Độ cũng có Đức Phật Thích ca Mâu ni người tương truyền sống cùng thời, mà ảnh hưởng của ngài về sau ở Trung Hoa cũng không hề kém Lão Tử và Khổng Tử.


                                   Chân dung Bồ đề Đạt ma. Ảnh Internet.


Trong tất cả những vị Tổ sư của Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa (với Ấn Độ là 28 đời, người khởi đầu là Đức Phật Thích Ca, và người cuối cùng là Bồ đề Đạt ma. Trung Hoa với 6 đời người đứng đầu là Bồ đề Đạt ma và người cuối là Lục tổ Huệ Năng). Trong tất cả những vị Tổ sư thiền tông ấy thì tôi thích nhất là Bồ đề Đạt ma, vị Tổ sư có những tư tưởng, hành vi, và cả một diện mạo khác thường so với những vị Tổ sư khác. Hình ảnh của vị "Tổ sư Bồ đề" như chúng ta thấy qua những hình vẽ thật khác người, là một nhà sư nhưng ngài để râu tóc trông như một tên cướp biển, với đôi mắt lộ quằm quằm trắng dã, bộ dạng hoàn toàn không giống một nhà tu hành. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang đã căn cứ theo Tục cao tăng truyện của Đạo Tuyên viết nhân vật Bồ đề Đạt ma đã đến Việt Nam trước khi sang Trung Hoa.

Ngay cả năm sinh, năm mất, thân thế của vị Tổ sư này cũng mờ ảo. Ngài sinh và mất năm nào? Không sách vở nào chép rõ, Chỉ có những điều sau đây giữa Đức Phật Thích Ca và Bồ đề Đạt ma là giống nhau, sách vở chép các ngài cùng là con của các vị vua ở miền Nam Ấn Độ, thuở nhỏ rất thông minh, đĩnh đạc, và cuối đời là những nghi vấn quanh việc các ngài qua đời vì bị những người ganh ghét đầu độc. Bồ đề Đạt ma cũng thế, cũng có những nghi vấn về việc ngài bị đầu độc mà mất y như Đức Phật Thích Ca, theo Truyền pháp bảo ký của Thiền Tông thì vị sư tổ Bồ đề Đạt ma bị hạ độc đến sáu lần. Những điều này cho hậu thế thấy điều gì? Là cả khi đã thành Phật, đã giác ngộ và đắc đạo, được nhiều người yêu mến, các ngài vẫn có những kẻ ganh ghét, thù hằn muốn hãm hại...

Cũng như tên gọi Phật, là rút gọn của từ Phật Đà, phiên âm tiếng Hán của từ Buddha (tiếng Phạn Sanscrit và Pali), tiếng Việt cũng có một tên gọi khác là Bụt (nghe có vẻ Tiên ông Đạo cốt hơn từ Phật), thoạt đầu không phải là tên của một người, đại khái Phật có nghĩa là Giác ngộ, Đại giác, dứt khỏi luân hồi... Bồ đề Đạt ma cũng thế, có nghĩa là Đạo Pháp (tiếng Phạn Sanscrit là Bodhidharma). Sách vở được nhiều người biết đến ghi chép vào năm 520 đời Lương Võ Đế Bồ đề Đạt ma đi thuyền đến Trung quốc, ở kinh đô Nam Kinh ngài gặp nhà vua, vua hỏi cả đời vua xây dựng tự viện, cúng dường Tam bảo, vì Phật pháp mà làm rất nhiều điều như vậy có công đức không? Câu trả lời của Đạt ma là "Không có công đức". Vì câu trả lời đi thẳng vào bản thể của vấn đề mà vua Lương Võ Đế không lĩnh hội được, nên nhà vua phật ý (chữ phật trong phật ý thuộc bộ Tâm, có nghĩa là giận dữ, không vừa lòng, khác với chữ phật thuộc bộ Nhân có nghĩa là giác ngộ), nhà vua đã đuổi Đạt ma ra khỏi đất Lương.



                                                "Bích nhãn hồ".  Ảnh Internet.


Bồ đề Đạt ma ra khỏi đất Lương vượt sông Dương Tử, có truyền thuyết nói ngài vượt sông trên một cọng cỏ lau đi về phương Bắc, vào Lạc Dương đến chùa Thiếu Lâm ở dãy Tung Sơn lặng lẽ diện bích suốt chín năm, nên được người thời bấy giờ gọi là "bích quán Bà la môn" (người Bà la môn nhìn vách). Thiền mà Đạt ma truyền thừa lấy Lăng Già kinh làm quán chiếu, ông đưa ra phương pháp tu hành "Lý nhập" và "Hành nhập". Lý nhập chính là bích quán, thật ra cái gọi là bích quán chỉ là một ẩn dụ, ý nói thông qua cách thiền định này tâm con người trở nên vững như tường vách, không nghiêng, không dựa bên nào. Chăm chú nhìn vào một bức vách, ở nơi đó không có Ta và cũng không có Người, không có Phàm cũng không có Thánh, hay nói khác đi Ta - Người - Phàm - Thánh, cũng chỉ là một...

Thiền pháp của Đạt ma không chú trọng về câu chữ, kinh kệ, trong lần gặp gỡ với vua Lương Võ Đế, vua hỏi về ý nghĩa cao nhất của Phật pháp, sư trả lời "Trống rỗng, không có gì là cao cả". Điều này đối nghịch với các tông phái khác ở Trung Hoa lúc bấy giờ, là chìm đắm trong việc luận bàn kinh sách, say mê với những từ ngữ siêu hình viễn vông. Kể từ Đức Phật Thích Ca, kinh nghiệm bản thân mới là điều quan trọng nhất, như người uống nước tự biết nóng lạnh, tất cả những kinh sách về sau chỉ là ngón tay để chỉ vào cái kinh nghiệm ấy. Và từ Bồ đề Đạt ma, Thiền tông của Trung Hoa ra đời...

Trong câu chuyện sau đây một lần nữa, Bồ đề Đạt ma đã nêu cao tư tưởng của ngài. Khi gần viên tịch, ngài gọi những môn nhơn lại nói: "Các ngươi xuất gia theo ta học đạo đã lâu, vậy bây giờ có chỗ sở đắc gì hãy nói cho ta nghe?". Có người tên là Đạo Phó bước ra thưa:

- Theo chỗ hiểu của con chẳng chấp văn tự cũng chẳng lìa văn tự, đó là đạo dụng".

Bồ đề Đạt ma nói:

- Ngươi đã được phần da của ta.

Người khác là Ni Tổng Trì thưa:

- Theo chỗ thấy của con, ví như ngài Khánh Hỷ, chỉ thấy cõi nước Phật A Súc có một lần, không thấy được lần thứ hai.

Bồ đề Đạt ma đáp:

- Ngươi đã được phần thịt của ta.

Đạo Dục Thiền sư, một môn nhơn khác bước ra thưa

- Bạch thày, tứ đại vốn không, ngũ uẩn chẳng có, chỗ thấy của con không có một pháp gì có thể đạt được, như thế là đạo.

Bồ đề Đạt ma nói

- Ngươi được phần xương của ta.

Đến phiên Huệ Khả bước ra, đảnh lễ ngài ba lạy rồi trở về đứng tại chỗ cũ, chẳng nói chẳng rằng.

Bồ đề Đạt ma liền nói

- Ngươi đã được phần cốt tủy của ta rồi.

Huệ Khả chính là người đã được Bồ đề Đạt ma truyền cho y bát, trở thành tổ thứ nhì của Thiền tông Trung Hoa.

Câu chuyện Bồ đề Đạt ma trao y bát cho Huệ Khả cũng phảng phất hương vị của chuyện Đức Phật trao y bát cho ngài Ma ha Ca diếp. Khi Đức Phật đăng đàn thuyết pháp ngài không nói gì chỉ cầm một đóa hoa đưa ra trước tăng chúng, mọi người ngơ ngác nhìn nhau, duy chỉ có Ma ha Ca diếp mỉm cười, và Ma ha Ca diếp đã được Đức Phật chọn làm người kế vị, là tổ thứ nhì của Thiền tông Ấn Độ.


                                            Đạt ma quảy dép. Ảnh Internet.

Chín năm ngồi diện bích
đã tưởng đến Vô cùng
cuối đời quảy chiếc dép
mới thấy lòng ung dung.

Có một hình ảnh tôi rất thích về vị "Tổ sư Bồ đề", đó là hình vẽ ngài quảy trên đầu gậy một chiếc dép. Câu chuyện ngài quảy một chiếc dép cũng không xa lạ với mọi người, tôi muốn kể lại để kết thúc câu chuyện về một vị Tổ sư lừng danh của Thiền tông.

Truyền thuyết nói rằng Bồ đề Đạt ma sống đến 150 tuổi, cuối đời ngài bị đầu độc và chôn ở Hồ Nam. Sau có sứ thần nước Ngụy là Tống Vân từ Sung Đỉnh (biên giới Ấn Độ - Trung Hoa) về, gặp Bồ đề Đạt ma quảy một chiếc dép trên núi Hùng Nhĩ, sư cho biết đang trên đường về Ấn Độ, và Trung Hoa sẽ tiếp nối dòng thiền của mình. Về tới kinh đô sứ thần tâu chuyện cho vua biết. Vua cho cho đào mả mở áo quan của Đạt ma chỉ thấy quan tài rỗng không còn có một chiếc dép. Vua ban chiếu thờ chiếc dép tại Thiếu Lâm Tự, nay đã mất tích. Cũng ghi chép khác cho rằng một nhà sư đi thỉnh kinh về từ Ấn Độ gặp Đạt ma giữa đường, hỏi Đạt ma trả lời tương tự như trên, khi về nhà sư mới hay Bồ đề Đạt ma đã mất liền cho đệ tử mở áo quan, chỉ còn thấy một chiếc dép. Vì câu chuyện này mới có hình ảnh sư quảy một chiếc dép như chúng ta đã thấy.


Tham khảo

- Từ điển Phật học, Ban Biên dịch Đạo Uyển, Chân Nguyên, Nguyễn Tường Bách, Thích Nhuận Châu, Cty sách Thời Đại & NXB Thời Đại xuất bản năm 2011.
- Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang. NXB Văn Học xuất bản năm 2011.
- Lịch sử Phật giáo, Nguyễn Tuệ Chân biên dịch, NXB Tôn Giáo xuất bản năm 2011.
- Lịch sử Phật giáo Trung quốc, Pháp sư Thánh Nghiêm, dịch Thích Tâm Trí, NXB Phương Đông xuất bản năm 2010.
- Tinh hoa triết học Phật giáo, JUNJIRO TAKAKUSU, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB Phương Đông tái bản lần thứ 3 năm 2011.
- Thế giới Phật giáo - Phương diện lịch sử văn hóa và minh triết, Điền Đăng Nhiên, dịch giả Thích Ngộ Thành, NXB Văn Hóa Sài Gòn xuất bản năm 2009.
- Bồ đề Đạt ma, Phạm Công Thiện, NXB Tôn Giáo xuất bản năm 2003.
- Góp nhặt lời  Phật tổ và Thánh hiền, dịch giả HT Thích Duy Lực, NXB Tôn giáo ấn hành năm 2007.

12 nhận xét :

  1. Đọc entry này và biết thêm một số điển tích về BĐĐM tuy rằng những điển tích ấy em đọc mà chẳng hiểu gì cả :D
    Cuối tuần chúc bác Hiệp và gia đình thật vui!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Thiền tông xưa có lẽ khác Tịnh độ ở điểm này đó TT, khá khó hiều, mỗi tông phái có một cách khác nhau để đạt được mục đích đã đề ra.

      Hihi, cuối tuần vui vẻ, Nghé chừng nào về vậy TT?

      Xóa
  2. Đọc một entry dài , biết được nhiều điều .
    Có một điều không hiểu là hồi nhỏ có nghe ai đó hay nói " Nói dóc tổ sư bồ đề " . Bác H có nghe vậy bao giờ chưa ? Và cũng chẳng hiểu tại sao người ta lại nói vậy ...

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Hìhì, ngày xưa có nhiều điều người ta dùng từ "Tổ sư Bồ đề" để ám chỉ, chẳng hạn như gặp tay dóc tổ, cũng hay thấy nói "tay đó nói dóc tổ sư bồ đề", hoặc gặp người thái quá về một vấn đề gì đó, cũng nói không không "gặp tổ sư bồ đề rồi"... Trong entry tôi có dùng chữ "tổ sư Bồ đề" trong ngoặc kép cũng nằm trong ý đó.

      Chắc tại ngài Bồ đề Đạt ma có nhiều cái nhất quá cho nên dân gian mới dùng địa vị, tên tuổi của ngài để ám chỉ nhiều thứ... kể cả cái xấu (chắc vì tướng mạo ngài giống... tướng cướp quá) :-)))

      Xóa
  3. Đạo Phật đạo Khổng ban đầu đều rất đơn giản, thực chất... nhưng người đời sau ngày càng làm cho nó rắc rối, bí hiểm, sai lạc đi theo ý đồ của mình, phải không anh H.

    Nói dóc Tổ sư Bồ đề chắc cũng có nguyên do từ việc giáo lý rắc rối, ông nào vận dụng thì nói thiệt, nói dóc cũng không ai cãi được chăng...

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Lão, Phật, Khổng, Chúa... đơn giản thấy mồ, chỉ có mấy ông thày, đạo sĩ, cha cố... làm cho bí hiểm, phải cần qua trung gian của họ mới "ra" vấn đề. Hihi!

      Xóa
  4. 1- Ta nghe quen Huệ Khả, nhưng thầy Thích Quảng Độ dịch Phật Quang Đại từ điển thi viết là Tuệ Khả. Chữ
    慧 vừa đọc huệ vừa đọc tuệ làm có người ngỡ ngàng
    2- Nhiều người khoái Bồ Đề Đạt Ma do hành tung ông mịt mù trong khói sương, kể cả hình dáng hơi quái đản của ông qua các bức họa. Chắc chắn người ta vẽ ông theo truyền thuyết, vì ông thực đúng như thế thì làm sao trích ngang ông lại mờ mịt vậy??
    3- Trong bốn thí sinh BĐĐM sát hạch thì Huệ Khả xứng đáng "đoạt giải" hơn cả, thực ra thầy chưa vừa lòng lắm đâu, nhưng không còn chọn ai hơn. Trò cũng có thể thấy mình trả lời chưa hay lắm song không cách nào hơn là im lặng. Tại sao vậy? Theo bu tui là:
    - Thiền Tông là sự kết hợp độc đáo giữa Trung quán luận và Duy thức luận. Hai luận này thuộc loại siêu đẳng tột cùng của Đại thừa Phật giáo. Chưa nói đến Duy thức, riêng Trung quán thôi thì đã không chấp có cũng không chấp không, (năm 1992 thầy Thanh Từ viết trong lời nói đầu sách luận giải kinh Kim cang rằng: Trí tuệ bát nhã thấy đúng lý trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không). Ngài Huệ Năng im lặng là không tuyệt đối, thực chất là kẹt vào không. (Tiểu thừa và Đại thừa khác nhau cũng bởi chính chỗ này đây. Đại thừa không chấp có không chấp không, Tiểu thừa phá được chấp có nhưng kẹt vào chấp không, ngài Huệ khả nhị tổ thiền Trung Hoa là môn phái Đại thừa nhưng còn vướng cái đuôi tiểu thừa trong cách trả lời vậy)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. 1- Chữ Huệ và chữ Tuệ (chữ Hán, cùng bộ tâm), từ điển viết có thể dùng thay thế cho nhau. Tuy nhiên tôi thầy bên chữ Việt Phật giáo dùng chữ Huệ có vẻ "cao" hơn chữ Tuệ một bậc, "trí huệ" có vẻ trí giác hơn là "trí tuệ". Tuy nhiên viết như bác viết bên trên thì đọc "huệ" là thông dụng.
      2- Hình ảnh các vị Tổ sư đều là vẽ theo truyền thuyết về họ, do người sau tưởng tượng ra cả, ông này hành tung có vẻ bí ẩn, ngôn ngữ khó hiểu cho nên hình ảnh của ngài cũng phải "quái quái" mới thích hợp.
      3- Trang tử bên Tàu, sau Đức Phật khoảng 200 năm cũng có nói: "mình là người khác, người khác cũng là minh", "con ngựa trắng hay ngựa đen cũng là con ngựa", hoặc "đừng suy luận gì hết sẽ thấy được Đạo". Tôi nghĩ Trung quán, Duy thức, hay Vô thức... là do người đời sau (những nhà triết học, bác học...), nghĩ ra để cố giải thích một điều rất đơn giản mà Đức Phật, Lão Tử, Trang Tử đã cảm nhận...

      Xóa
  5. Cam on anh Hiêp da gioi thiêu thêm vê BDDM , em không biêt gi nhiêu vê ngài ...nhung dung nhu chi BangTam noi ...hê ai thuong hay noi dôc ...thi thuong duoc mênh danh cua nguoi ....bây gio thi em hiêu rôi ...mà trông bô tuong cua ngài ...thây so qua anh hén ?

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Bộ tướng này trông... Lương Sơn Bạc quá ha Nang Tuyet?

      Xóa
  6. Mình không biết nhiều về BDĐM, nhưng "trông mặt mà bắt hình dung". Chỉ cần nhìn đội mắt "tứ bạch" như hình vẽ thì có thể suy ra đây là con người không chơi được. Không hiểu thực tế thì ra sao ?

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Hihi, bộ dạng ông Tổ sư ông này nếu xét theo tướng số đúng là... khó chơi, mắt trợn ngược, trắng dã, quằm quằm... Đúng là bộ dạng... tướng cướp :-)))

      Xóa

:) :( :)) :(( =))